Trung Trung Đỉnh

trung_trung_dinh

Trung Trung Đỉnh là nhà văn trưởng thành từ chiến trường chống Mỹ. Đề tài của anh tập trung vào miền đất Tây nguyên nơi anh là lính chiến một thời. Nói vui kiểu Kim Chuông “Cái ông Đỉnh này, ăn Tây Nguyên thời chiến, bây giờ quay về ăn lại. Lão định chén hết Tây Nguyên?”. Gần đây VTV1 phát bộ phim dài tập “Ngõ lỗ thủng”, tôi xem và ngớ ra, anh chẳng thông báo gì cho đàn em cả. “Ngõ lỗ thủng” và “Tiễn biệt những ngày buồn” là hai cuốn tiểu thuyết được nhà văn Trung Trung Đỉnh viết vào những năm 80 (của thế kỷ 20). Câu chuyện xảy ra trong tiểu thuyết cũng là câu chuyện của chính cuộc đời anh. Gặp hỏi “đạo diễn có trung thành với tác phẩm không” “Ồ , đó là việc đạo diễn, mình không quan tâm lắm - TTĐ trả lời vậy”. Anh dường như phơt ăng lê cái tên tuổi của mình. Anh vậy đã đành, Có điều, người Vĩnh Bảo quê anh lại biết về anh ít quá. Ngày giỗ lần thứ 425 cụ Trạng Trình anh về dự hội thơ “Vầng trăng quê trạng”, khi giới thiệu anh là Uỷ viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam , nhiều người mới ngớ ra, anh ngồi đấy trên một cái ghế nhựa ướt rượt nước mưa nghe thơ trong khi người ta thay nhau chào bắt tay mấy MC của đài truyền hình!

Thực ra, anh để lại một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ:Thung lũng Đá Hoa (1979), Người trong cuộc (1980) , Đêm nguyệt thực (1982) ,Những người không chịu thiệt thòi (1982),  Ngược chiều cái chết (1989), Hoa cho người sống,Lạc rừng ,Tiễn biệt những ngày buồn (1990)  Chuyện tình ngõ lỗ thủng (1990),Bậc cao thủ (1994), mới đây là tập “Lính trận”. 

 Năm 2004, anh về chỗ tôi chơi và bàn nhau cách tổ chức cho Kim Chuông lấy vợ. “Thương thằng này quá, tao về bàn với họ hàng gả đứa em gái họ cho nó”- Anh bảo với tôi vậy. Khi “Đội hình thi sĩ quê Vĩnh Bảo” cổ suý tôi in thêm tác phẩm, anh bảo : “Các ông tha cho nó đi, kéo nó vào làm gì, ngần này thằng khổ rồi chưa đủ sao”. Trung Trung Đỉnh là vậy, ít nói, nhưng khi nói như bắn ra từng chuỗi AK kiểu “Lính trận” chắc nịch. Tuyềnh toàng trong ăn mặc và trông có vẻ khó gần, nhưng đến với anh ai cũng ấm lòng vì cái suy nghĩ trước sau cho bè bạn, đàn em vì mình khổ là đủ rồi. Năm nào anh cũng về quê, đặc biệt những ngày giáp tết không khi nào vắng anh. Nhiều lúc kề cà đủ chuyện, nhưng bao giờ anh cũng bắt tôi chọn bằng được cái quán nhìn thấy cảnh quê. Anh ngồi đó mắt nhìn ra cánh đồng rưyng rưng im lặng. Cũng có khi “Đột kích” về, điện ngay ra quán uống với nhau 1 chén rượu, rồi giông thẳng xe về Hà Nội ngay trong đêm... 

 

Đêm nguyệt thực

Tôi được cơ quan phân công tới làng Plei-O-K nơi cách đây hơn chục năm, hồi còn đánh Mỹ có nhiều dịp qua lại. Nhiệm vụ của tôi là phải viết được một bài báo, phản ánh kịp thời về sự đổi mới của bản làng, sau mấy năm giải phóng. Làng nằm dưới thung lũng, xung quanh toàn đồng cỏ. Cách đó không xa là nông trường chăn nuôi của huyện M. Nơi đây có nhiều sự tích đánh Pháp và nhất là đánh Mỹ. Từ huyện lỵ về làng phải đi bộ mất non một tiếng.

Lúc ấy đã hơn sáu giờ tối. Hơn sáu giờ tối trong thung lũng trời chuyển hẳn sang không khí ban đêm. Gío se se lạnh. Tít xa chỉ thấy những mảng đồi và vô khối đường viền lấp lánh do lửa cháy rải rác trong các khe núi hắt ra. Những vệt khói chuyển động dưới bầu trời sao chi chít. Tôi háo hức bước trên đường cái về làng. Phía trước có tiếng reo hò huyên náo và tiếng chinh chiêng ầm ĩ. Có cả những tiếng gõ nghe loạn xạ không ra bài bản, nhịp điệu gì. Mới đầu tôi nghĩ, chắc làng đang hội hè hoặc có cuộc vui nào đó. Nhưng càng tới gần càng cảm thấy không phải. Chẳng có cuộc vui nào lại nhiều tiếng gõ, tiếng hú, tiếng hò la đến vậy.

Tôi bước vào sân làng. Những bó đuốc sáng rực chạy vội vã từ nhà này sang nhà khác. Những tiếng hú nối nhau thảng thốt. Tôi chột dạ lo ngại. Không phải làng đang vui mà rõ ràng đang có sự cố gì. Vì biết nói tiếng địa phương, nên tôi nghĩ, mình đến đó có thể giúp gì được bà con.

Tôi hăng hái vào làng và gặp vài người. Tôi chào bằng tiếng địa phương. Nhưng họ chỉ ngoái lại nhìn rất nhanh rồi quay đi, tiếp tục la hét và gõ vào những đồ dùng đang cầm sẵn trên tay. Ngoài sân làng, một người huơ huơ đuốc. Nhiều người cũng cầm đuốc xúm lại. Tôi thấy một cái bóng cao to trao cây đuốc cho chú bé rồi bắc loa tay, hú lên một tiếng rõ dài. Mọi người im phắc. Người đó đứng giữa vòng, chỉ lên trời, nói rất to bằng tiếng Gia Lai. Anh ta giải thích cho bà con hiểu là, hiện tượng nguyệt thực chẳng qua do mặt trời, trái đất, mặt trăng quay đến một chỗ thẳng hàng nhau, nên ta chỉ thấy mặt trăng có chút xíu thế kia. Sau đó anh bắt ba em nhỏ xếp thẳng hàng, đứa cầm đuốc, hai đứa sau đứng nghiêm. Nhưng anh không nhớ, cả vòng người quanh anh, hầu như ai cũng có đuốc. Và vì thế, ba cái bóng nhỏ nhoi của ba chú bé ngả nghiêng, chĩa ra nhiều phía. Dân làng ồ lên rồi toả ra hò hét, la ó. Tiếng chinh chiêng càng dồn dập hơn. Tiếng hú càng dài hơn. Tôi bất giác nhìn lên khoảng trời trước mặt. Một quầng sáng đen kịt như đang rung chuyển. Cái quầng đen phát sáng ấy gây cho ta cảm giác rùng rợn. Phía sau quầng đen, những ngôi sao sâu hút, le lói. Một mảnh ánh sáng sắc lẹm hơi cong, chập chờn hiện lên, như là rất rõ, lại cũng như là không thấy gì, khiến ta tưởng như đang bị loạn thị vậy. Tôi dụi mắt, nhắm chặt một lúc lâu. Khi mở ra, cảnh tượng vẫn y như cũ. Đây là lần đầu tôi thấy hiện tượng nguyệt thực trên cao nguyên.

T.T.Đ

Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Văn học, 2002

Chuyện vặt

Tôi mắc cái tật xấu, cứ trước giờ xuất kích, sau khi nghe tiếng anh Mười Thử bảo: “Thôi, đi óc!” là y như rằng, cái thằng bụng dạ tôi nó réo quặn lên, mót ị. “Chờ em một chút”, tôi vội vàng tháo thắt lưng, hạ ba-lô biến vào rừng, làm cái việc bất đắc dĩ không giải quyết không xong ấy. Gần như cùng một lúc thằng Chung, thằng Viễn, bạn đồng ngũ với tôi đều không cần phải báo cáo, chỉ nhìn bộ mặt đần thối cuả chúng nó cùng các động tác lật đật tháo thắt lưng, lật đật hạ ba-lô, hạ súng là lẽ tất nhiên, anh Mười cùng cả tổ công tác Cánh Bắc Đường đều ai nấy tự biết cần phải làm gì. Thằng Tụng tủm tỉm liếc mắt sang anh Mười rồi bảo, đó là căn bệnh của những thằng yếu bóng vía, chưa vào trận mà đã....

- Không hẳn là thế, anh Mười Thử đủng đỉnh nói. Bệnh ấy là căn bệnh của hầu hết những thằng lính mới ra trận, anh nói thêm. Sau này đã dạn dày rồi, tôi mới biết điều đó.

- Nhưng em cứ suy từ em ra, thằng Chung tồ ít tuổi, bé con nhất, nhưng lại hay nói lý bảo với anh Mười. Đó hoàn toàn không phải là bệnh hay tật xấu. Đó là phép giải toả tâm trạng. Anh có thấy sau mỗi lần giải quyết xong “cái rẹc”, tâm hồn anh trở nên thơ thới, nó quay sang tôi, rồi lại quay sang thằng Viễn, “mở máy” tiếp. Tay súng anh ra trận trở nên nhẹ bẫng, ý chí anh được nâng cao...

-  Cao cái con khỉ! Thằng Tụng chặn đứng luồng thuyết lý của thằng Chung, khiến nó bị hẫng. Đó là lúc tất cả chúng ta đều tranh thủ đọc truyền đơn của địch thì đúng hơn! Thằng Tụng bao giờ cũng dựng được cái cốt cho câu chuyện bằng một chi tiết cực đắt và bất ngờ như vậy.

Ngọn lửa trước mặt chúng tôi chừng như hạ mình xuống, vệt khói xiên thẳng lên cái dàn bếp truyền thống, theo lối cũ kỹ của thằng Chung, trong thứ ánh sáng không ra ánh sáng, cứ chập chờn run rẩy ấy, tạo nên một khung cảnh lạ lùng sau câu nói sắc lạnh cuả ba Tụng. Tôi có cảm giác như tất cả trong khoảnh khắc đột nhiên hoá đá.

-  Mày cứ nói thế, tôi nói . Mà đọc truyền đơn địch thì đã sao?

-  Ba thằng chiêu hồi đều chỉ vì nghe đài địch, đọc truyền đơn địch, nghe loa phóng thanh từ trên máy bay địch...

Thằng Tụng vẫn nói giọng căng cứng. Ba mươi lăm năm sau chiến tranh rồi mà sao tính nết thằng nào vẫn y chang thằng nấy, chẳng thấy thay đổi tí nào.

-  Nhậu! Không nói nhiều!

Thằng Viễn rót rượu ra hết lượt các ly. Tôi hưởng ứng. Rồi đến anh Mười, thằng Chung.

-  Ba Tụng! Anh Mười nhắc. Mày sao đó mày?

Ba Tụng cầm li rượu đưa ra trước mặt thằng Chung, huơ huơ cánh tay cụt, nói:

- Xin lỗi anh em, nó long trọng. Ngày ấy tôi cứ hay nghi thằng Chung này trước sau rồi cũng chiêu hồi ...

Chung và Tụng chưa bao giờ hoà hợp với nhau. Đã có lúc hai đứa cùng kéo cò súng lên, định “nói chuyện” với nhau rồi. Chẳng là lần xuống ấp phá bầu cử của địch, anh Mười phân công tôi phụ trách thằng Chung và thằng Tụng đột nhập một hướng. Hướng của chúng tôi phải lội qua một đám sình lầy rồi mới vào được ấp. Thằng Chung đi trước, rồi đến Tụng. Tôi khoá đuôi. Đang lội sình thì pháo sáng địch đột ngột bắn loà trời, lẽ ra phải đứng im thì hắn lại nhảy dựng lên, tất nhiên là sau cú nhảy dựng lên ấy cu cậu cũng phải đứng lại, nhưng toàn thân run lẩy bẩy. Tôi thấy thằng Tụng chồm tới ngay sau khi ánh pháo sáng của địch tắt. Nó ấn thằng Chung xuống bùn rồi cứ thế hai thằng nhồi nhau. Tôi dùng báng súng chận ngang hai đứa và dùng đầu húc mạnh vào mạng sườn thằng Tụng. Chúng tôi lôi nhau lên được bờ thì cối địch nã cú nổ cú bụp phía bên kia bãi lầy. Lại pháo sáng! Tôi thấy thằng Chung khóc. Còn thằng Tụng thì dứ dứ quả đấm vào sát mặt thằng Chung. Tôi nghiến răng, dí quả lựu đạn vào mặt chúng nó, rít lên. Tất nhiên là không được rít to:

- Chúng mày giết ông đi!

Cuối cùng rồi cũng êm. Tôi đi giữa, thằng Tụng đi trước, thằng Chung theo sau. Tôi thấy thằng Chung vẫn run, còn thằng Tụng thì vẫn hằm hè bảo nó là thằng hèn, thằng sợ chết. Sợ chết thì nói thẳng ngay từ lúc ở nhà...

Tôi ra lệnh không thằng nào được nói thêm một câu nào nũa!

Đêm ấy, sau khi quấy rối trong ấp về, chúng tôi rút vào suối Dấu. Thằng Chung ngụp lặn kỳ cọ cả buổi, còn tôi và chằng Tụng ngủ. Ngủ chán rồi mới gọi nhau họp kiểm điểm. Thằng Chung bảo em giẫm vào bụng một cái xác chết trương phình, rất to, nghe rõ tiếng bục của nó, rồi “xèo” một phát. Rút chân ra đúng lúc pháo sáng, em sợ quá nên mới nhảy dựng lên, ai dè bị anh Tụng anh ấy đánh!

Nói xong nó lại khóc. Tôi nghe thằng Chung tả cũng rợn tóc gáy, nhưng không dám nói ra. Còn thằng Tụng thì nhổ phì phì rồi khẳng định, đó là xác bọn Mỹ sau trận đánh của chúng tôi hồi tuần trước vào toán xe tiếp vận của chúng chạy từ căn cứ An Khê ra.

-  ối giời, chuyện vặt!

Thằng Viễn chủ xị vừa giơ chai rựơu lên soi soi vừa nói, rồi tiếp tục rót vào các ly, đưa tận tay từng người.

-  Tao đã từng ăn cứt thằng Bình thì đã sao?

Của đáng tội, chuyện ấy quả có thế thật, nhưng tất cả chỉ là vô tình. Tôi có nắm cơm khá to, chỉ vì mấy ngày liền  bị ông Tào Tháo đuổi nên chưa ăn đến, lóng ngóng trong lúc chạy thế nào, bị tuột quai túi, nắm cơm rơi trúng cái bãi chiến trường do mình phóng ra. Bỏ thì tiếc, mà nhặt lên cũng thấy rợn tay. Nhưng nói thật là nắm cơm không, trị giá cả lon gạo trắng tinh, tiếc đứt ruột, nên tôi cứ nhặt đại về. Thằng Viễn  nửa khuya từ chốt được thay ca, mò tới hỏi thăm tình hình cái bụng xấu của tôi, rồi nó kêu đói quá, tôi đành nói tình thật. Nó đem nắm cơm ra suối rửa, rồi về rang lên, ngồi chén. Nó bảo cứt mày thế mà bùi, chỉ  tiếc là có mỗi nắm nên tao vẫn thòm thèm.

- Anh Tụng hồi ấy hay bắt nạt em, thằng Chung vừa nhổm dậy định nói thì thằng Tụng lại đằn li rượu vừa uống cạn xuống đất.

-  Tao thèm bắt nạt hạng mày? Mày có công nhận đi lãnh muối, tao gùi năm chục ký, gấp đôi mày không?

-  Cái ấy thì công nhận, thằng Chung nhỏ nhẹ.

-  Mày có công nhận hôm mày bị sốt rét tao cõng mày chạy địch càn, về đến trạm giao liên tao còn phải giặt bộ quần áo cứng queo, vừa hôi vừa thối vì cứt đái của mày, rồi...

- Rồi lại đánh nó, tôi nói. Mày cũng một vừa hai phải với nó thôi, Tụng ạ. Tao mà là thằng Chung, tao nói thật, quên khẩn trương công trạng của thằng Tụng. Trong chiến đấu, đó là nhiệm vụ chứ không phải thành tích.

-  Tao mà lại thèm kể công? Quên đi!

Nói rồi Tụng cầm li rượu của thằng Chung, uống cạn.

Thằng Chung rượu không, thuốc không, vợ không, tất nhiên em út càng không. Sau ngày giải phóng về, nó học được nghề thuốc Nam chữa bệnh, nghe đâu của ông bác ruột truyền cho. Bệnh nhân nhiều nhưng cu cậu vẫn nghèo. Chính nó chữa bệnh cho vợ anh Mười Thử từ trong Nam ra. Trước khi chị Mười tươi hơn hớn được nó “xuất chuồng”, nó gọi anh em chúng tôi tới nhà chiêu đãi. Những li rượu này do chính tay nó nấu, nó ngâm, nó pha. Nó kì công chắt cho anh em chúng tôi mỗi người một chai sáu mươi đặng đem về. Nó bảo rượu của em các anh uống, các chị phấn khởi. Thế còn nó? Lâu nay nó lo cho tôi hết hẳn căn bệnh “xấu bụng”, thằng ba Tụng hết buốt đầu cánh tay cụt. Thằng Viễn một thời mắc nghiện, may mà có nó kiên trì theo chữa. Rồi đến chị Mười Thử, khi ra ngoài này mặt mày héo hon, nay nó cho về mặt tươi như bắt được của. Chúng tôi đã đôi lần bàn nhau giúp nó lấy vợ, nhưng nó cứ trơn trớt hứa, anh em đành bảo nhau số nó dao sắc không gọt được chuôi, đành vậy!

-  Vớ vẩn, đành vậy là đành thế nào? Thằng Viễn nói.  Cả hội cánh Bắc đường chúng mình mà ra quyết nghị xem!

Nếu nó muốn, nó làm cái “rẹc”, Tụng khật khừ đưa cánh tay cụt lên  vỗ vỗ đầu Chung nom rất buồn cười.

- Chuyện vặt! Tụng cụt bồi thêm.

Tôi thì tôi  cho rằng, đó cũng chỉ là cách nói thôi, chứ làm qué gì  có chuyện vặt ở trên cõi đời này. Cứ để đấy, cuộc sống sẽ tự sắp xếp cho mỗi người theo cái cách của anh ta,  có sốt ruột, có vội vã cũng chẳng được.

T.T.Đ