“Mã tiền khóa” – Sấm của Quân sư Khổng Minh về thời vận Trung Quốc

     k1 Bài “Mã tiền khóa” được tương truyền là của Khổng Minh, dự đoán vận nước Trung Hoa từ đời Ngụy cho đến hiện nay. Tuy nhiên, đây là hiện tượng như “sấm trạng trình” của Việt Nam. Có những chi tiết giải đúng, nhưng chỉ giải được khi sự kiện đã xảy ra. Mặt khác khả năng “thánh hóa” do dân gian thêm bớt cũng là một yếu tố ảnh hưởng. Nếu căn cứ vào kiến giải bên dưới thì lời tiên tri trong quá khứ hoàn toàn chính xác, còn tương lai có đúng hay không chỉ có cách ngồi đợi thời gian trả lời (?).
Đặc điểm của sấm truyền là thông điệp được ẩn bên dưới ngôn từ lời thơ, và cần phải có chìa khóa chính xác để giải mã.  Chúng tôi quan điểm rằng đây là bài tham khảo về khoa học thần bí, nên sự dúng sai của nó không thể khẳng định ngay được. Bài trích đăng lại không mang hàm ý chính trị hoặc tuyên truyền duy tâm.
KHỔNG MINH – MÃ TIỀN KHOÁ
 
k2Án Khổng Minh Mã Tiền Khóa, nãi quân trung gian hạ chi thì, tác thử dĩ kì hậu nhân, xu tị chi phương, thử thập tứ khóa vi mã tiền khóa trung chi biệt tài, mỗi nhất khóa chỉ nhất triêu kì hưng suy trì loạn khả đắc ngôn chư ngoại, chí thập tứ khóa chỉ giả, lưỡng thứ lai phục chi kì dã, điện dĩ vị tể, dĩ kiến thử hậu hựu nhất nguyên hĩ. Thiên đạo tuần hoàn, minh giả tự minh, muội giả tự muội, hựu ô khả dĩ tọa nhi trí tai ?
Bát lục lão tăng Bạch Hạc sơn Thủ Nguyên chí.
Muốn biết và tin tưởng vào tương lai, cần dõi tìm hiểu rõ ở quá khứ 
Xác nhận và nắm vững quá khứ và hiện tại, sẽ tin tưởng vào tương lai 
Đại lược của Sư Thủ Nguyên:
Trong quân lữ khoảng thời gian nhàn rỗi, Khổng Minh gieo quẻ trước ngựa để người đời sau biết phương nào mà tới, phương nào mà tránh. Mỗi quẻ chỉ một triều đại, hưng suy trị loạn thế nào người ta có thể hiểu được ngoài lời nói.
Đại đạo tuần hoàn, người sáng suốt thì tự hiểu, kẻ ngu tối thì cứ mịt mù mê muội trong u tối, dâu có ngồi yên không làm gì mà hiểu thấu được .
Lời bàn:
Đoạn trên rất ích lợi cho người đọc, nếu suy ngẫm và hiểu thấu đáo, không riêng gì vấn đề Sấm truyền mà còn cho mọi vấn đề mọi phương diện khác, nhất là đang sống toàn cảnh trong ngoài nước Việt, các sự kiện trên thế giới ngày càng dần đi tới tình cảnh rối ren, hỗn loạn, khủng hoảng … mọi vấn đề, “Thế đồ đa hiểm trở – Dục vãng cánh hà chi : đường đời bao hiểm trở – Muốn đi nào biết đi đâu ?”, đi đâu không hiểm trở ?, muốn, muốn đi nào biết đi đâu ?, mà đi đâu thì ở đâu cũng đã và đang hoặc sẽ đầy hiểm trở !!!, nếu cứ ùa theo dòng trào lưu xu thế mà không xét kỹ, có thể tưởng rằng bỏ nơi nguy hại sẽ có hiện nay, nhưng không đến nguy hại lớn và sẽ được yên ổn về sau, để rồi lao vào nguy hại nhiều hơn hoặc rồi sẽ nguy hại lớn hơn về sau.
Quẻ thứ nhất: Quẻ Di (Trung Hạ)
Vô lực hồi thiên
Cúc cung tận tụy
Âm cư dương phất
Bát thiên nữ quỷ
Chứng viết: dương âm âm âm âm dương tại quái vi Di
Giải viết: chư cát cúc cung tận tụy nhi tử, hậu Thục Hán hậu chủ hàng vu Ngụy
Dịch nghĩa:
Không có sức (để) xoay ngược lại (được) cơ trời
Còng lưng kiệt sức
Âm ở lại dương lướt qua
Tám ngàn nữ quỷ
Sư Thủ Nguyên ở núi Bạch Hạc sống vào năm Gia Tĩnh đời Minh đoán như sau:
Sau khi Khổng Minh chết, hậu chúa hàng Ngụy, bốn chữ bát , thiên, nữ, quỷ, hợp lại thành chữ Ngụy.
Quẻ thứ 2: Quẻ Ly (Trung Hạ)
Hỏa thượng hữu hỏa (Viêm )
Quang chúc trung thổ
Xưng danh bất chính
Giang Đông hữu hổ
Chứng viết: dương âm dương dương âm dương tại quái vi Li
Giải viết: Ti (Tư) Mã Viêm  soán Ngụy, nguyên đế đô kiến khang chúc Giang Đông
Dịch nghĩa:
Trên lửa có lửa
Soi sáng trung thổ (vùng dất ở giữa)
Xưng danh không chính đáng
Giang Đông có cọp
Lời giải thích của sư Thủ Nguyên:
Lưỡng hỏa thành Viêm ý nói Tư Mã Viêm lên ngôi thế nhà Ngụy. Tư Mã Viêm sẽ thống nhất Trung Hoa, nhưng xưng danh không chính đáng, sau này con cháu chạy về phía Giang Đông.
Quẻ thứ ba: Quẻ Bác (Hạ Hạ)
Nhiễu nhiễu Trung Nguyên
Sơn hà vô chủ
Nhị tam kì vị
Mộc chung mã thảo  thủy
Chứng viết: dương âm âm âm âm âm tại quái vi bác
Giải viết: ngũ đại thủy vu ti mã (ngũ đại thủy vu Tiêu thị ) chung vu Dương thị
Dịch nghĩa:
Trung Nguyên nhiễu loạn (rối loạn)
Sơn hà (quốc gia) không có chủ
Lại hai ba đời (ngôi vị)
Mộc cuối  mã  đầu (bản khác là chữ thảo )
Chứng viết:  dương âm âm âm âm âm tại quái vi Bác
Giải viết:  ngũ đại thủy vu ti mã (ngũ đại thủy vu Tiêu thị), chung vu Dương thị
Sư Thủ Nguyên giải thích rằng:
Trung Nguyên (Trung Quốc) bị rối loạn, đất nước không có chủ (chính thức). Hai ba đời là ngũ đại. Đời Ngũ Đại (Tề, Lương, Trần, Ngụy, Tùy) bắt đầu từ họ Tiêu có chữ thảo đầu, tức là Tiêu Đạo Thành và kết thúc bằng họ Dương tức là Dương Đế có chữ mộc ở bên.
Quẻ thứ tư: Quẻ Giải (Trung Thượng)
Thập bát nam nhi
Khởi vu Thái Nguyên
Động tắc đắc giải
Nhật nguyệt lệ thiên
Chứng viết: âm âm dương âm dương âm tại quái vi Giải
Giải viết: Lí Đường khởi vu Thái Nguyên, Vũ ? xưng Chu
Dịch nghĩa:
Mười tám người con trai
Dấy (khởi) lên từ Thái Nguyên
Động ắt được giải (thông)
Mặt trời mặt trăng (sáng) đẹp (ở trên) bầu trời.
Sư Thủ Nguyên giải:
Nam nhi là chữ tử , thập bát tử là chữ Lý , chỉ Lý Uyên khởi binh từ Thái Nguyên, sau lên ngôi vua là Đường Cao Tổ, con nối ngôi là Lý Thế Dân tức Đường Thái Tông.
Quẻ thứ năm: Quẻ Bỉ (Hạ Trung)
Ngũ thập niên trung
Kì sổ hữu bát
Tiểu nhân đạo trưởng
Sinh linh đồ độc
Chứng viết: dương dương dương âm âm âm tại quái vi Phủ (: phủ, bĩ)
Giải viết: ngũ đại bát tính, cộng ngũ thập tam niên
Dịch nghĩa:
Trong năm mươi năm
Số đó là tám
Tiểu nhân đạo trưởng (kẻ tầm thường mà muốn ra làm đạo lý xa dài)
Làm hại sinh linh (thần và người ắt phải căm giận cay đắng)
Sư Thủ Nguyên giải:
Sau Đường là đời Ngũ Đại trải 53 năm (Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu), có 8 họ làm vua cả thẩy (Đướng, Vương, Tiêu, Lưu, Mã, Cao, Mạnh, Lý) làm cho mọi sanh linh than thở căm giận oán ghét.
Quẻ thứ sáu: Quẻ Đoài (Thượng Trung)
Duy thiên sinh thủy
Thuận thiên ứng nhân
Cương trung nhu ngoại
Thổ nãi sinh kim
Chứng viết: âm dương dương âm dương dương tại quái vi Đoái
Giải viết: Triệu Tống hoàng bào gia thân, nhi lập địch vi Kim
Dịch nghĩa:
Chỉ có trời (mới) sinh (ra) nước
Thuận theo trời (thì mới) hợp lòng người
Trong cứng ngoài mềm
Đất sẽ sinh kim
Sư Thủ Nguyên giải thích:
Họ Triệu (Triệu Khuông Dẫn) lập nhà Tống, thống nhất Trung Hoa. Sau đó, Kim vào cướp phá, đó là cứng bên trong mà mềm bên ngoài (Thổ nãi sinh Kim).
k4Quẻ thứ bảy: Quẻ Tỉnh (Trung Trung)
Nhất ngột phục thủy
Dĩ cương xử trung
Ngũ ngũ tương truyền
Nhĩ tây ngã đông
Chứng viết: âm dương âm dương dương âm tại quái vi Tỉnh
Giải viết: Nguyên đại cộng thập chủ, hậu các hãn quốc phân liệt
Dịch nghĩa:
Một (cái, sự) cao chót vót trở lại đầu
Lấy (cái) cứng bền đặt ở chính giữa
Năm năm truyền cho nhau
Người ở bên tây ta bên đông
Sư Thủ Nguyên giải thích:
Chữ nhất  và chữ ngột  hợp thành chữ nguyên  chỉ nhà Nguyên đánh lấy Trung Quốc, truyền được ngũ ngũ là 10 đời vua, về sau mỗi chúa hùng cứ một nơi hai bên Đông Tây (nội Mông và ngoại Mông).
Quẻ thứ tám: Quẻ Ích (Thượng Thượng)
Nhật nguyệt lệ thiên
Kì sắc nhược xích
Miên miên diên diên
Phàm thập lục diệp
Chứng viết: dương dương âm âm âm dương tại quái vi Ích
Giải viết: chu tức xích, nhật nguyệt thị minh, cộng thập lục chủ
Dịch nghĩa:
Mặt trăng mặt trời đẹp (ở trên) bầu trời
Sắc của nó màu đỏ
Kéo dài không dứt
Tính thành mười sáu lá.
Sư Thủ Nguyên dịch nghĩa:
Chữ nhật  chữ nguyệt  thành chữ minh  chỉ nhà Minh. sắc đỏ chỉ chữ chu  là họ Chu đời nhà Minh, Minh Thái Tổ là Chu Nguyên Chương, đời nhà Minh được 16 đời.
k5Quẻ thứ chín: Quẻ Tấn (Trung Thượng)
Thủy nguyệt hữu chủ
Cổ nguyệt vi quân
Thập truyền tuyệt thống
Tương kính nhược tân
Chứng viết: dương âm dương âm âm âm tại quái vi Tấn
Giải viết: thủy nguyệt hữu chủ thị Thanh dã, cổ nguyệt thị Hồ dã, Mãn Thanh thập hoàng triêu tối hậu vong vu tuyên thống
Dịch nghĩa:
Có trăng có nước lại có chủ
Trăng xưa làm vua
Truyền được mười lần thì dứt
Xem nhau như khách
Sư Thủ Nguyên nói:
Ba chữ thuỷ , nguyệt , chủ  hợp lại thành chữ thanh  ý chỉ nhà Thanh. Hai chữ cổ  và nguyệt  hợp lại thành chữ hồ  chỉ người Hồ ở phương Bắc làm vua, truyền được 10 đời thì hết.
-   Lão tăng sinh vào năm thứ 10 đời Gia Tĩnh, đến nay đã 86 tuổi, từ đây về sau không dám bàn láo nữa.
Quẻ thứ mười: Quẻ Kiển (Trung Hạ)
Thỉ hậu ngưu tiền
Thiên nhân nhất khẩu
Ngũ nhị đảo trí
Bằng lai vô cửu
Chứng viết: âm dương âm dương âm âm tại quái vi Kiển
Giải viết: thỉ hậu ngưu tiền, Tân Hợi dã, thiên nhân nhất khẩu vi hòa, ngũ nhị đảo trí thị dân dã, bằng giả ngoại bang dã.
Dịch nghĩa:
Sau heo trước trâu
Ngàn người một miệng
Năm (5) hai (2) đảo lộn
Bạn đến không lỗi
Sư Thủ Nguyên không giải quẻ này. Hai ông Mã Nguyên Lương và Lê Xuân Mai lạm bàn rằng: Sau heo trước trâu chỉ năm Tân Sửu, ký hoà ước với 11 nước, đến năm Tân Hợi xảy ra cuộc Cách mạng, xóa ngôi vua.
Chú thích: phong trào Dân chủ Cộng Hoà nổi lên từ năm Tân Sửu (Ngưu tiền 1901), ký hoà ước với 11 nước ngoài (bằng lai), đến năm Tân Hợi (Thỉ hậu 1911) xẩy ra cuộc Cách mạng lập chính phủ Nam Kinh, thiên,  nhân,  nhất, khẩu, là chữ hoà  (Cộng hoà)
Quẻ thứ mười một: Quẻ Ly (Trung Hạ)
Tứ môn sạ tích (Tứ môn sạ khai)