Viết giữa giờ tan hội -Nguyễn Đình Minh
Viết giữa giờ tan hội
Những câu thơ cất cánh mang lửa trở về trời
Mặt đất, các nàng thơ như những cánh hoa đào vương lại
Văn Miếu hội tan, trưa bâng khuâng xác pháo
Trời nghĩ gì,
buông ngơ ngẩn mưa bay?
Trước những câu thơ, thơ ở nơi đâu?
Có phải từ mẹ ta oằn vai gánh trời
Tận hiến cả lòng yêu, chìm đời vào gian khó
Nơi trái tim Âu Cơ run lên trước nghìn cơn sóng dữ
Nỗi Đá Vọng Phu biền biệt ngóng chờ…
Nơi bầm dập nỗi đau trên da thịt của cha
Những vết sẹo trầm kha ủ trong hồn đất nước
Máu, mồ hôi hóa sóng trào nghiên mực
Trái tim nghẹn ngào ứa lửa bút nhà thơ…
Và nàng thơ, em là ai trong dáng lụa đào kia?
Ai chiều nay sẽ cắt ruột tiễn người thương vào mịt mù biển động
Ai hóa đá trước ngày thường:
Mái nhỏ nghiêng xiêu, muôn mối nợ nần, giá hàng đỏng đảnh
Chợ trưa, phơ phất phận đàn bà?
Thơ bay đi, rồi tan hóa giữa bao la
Siêu thoát cả nỗi vui và những niềm tức tưởi
Nhà thơ với nàng thơ lại hành trình vào vô thường thật ảo
Gánh tiền kiếp muôn đời
Xác cỏ, hồn hoa.
Văn Miếu, rằm tháng giêng năm Bính Thân
Trường khúc Sông Gianh
Như vết chém hằn ngang thân hình đất nước
Một mảnh trời ngâm trong những nưu toan bã ra và bấy nát
Tên bay như đàn châu chấu dại ngậm độc hận thù.
Đàng ngoài đàng trong, Chúa Nam, Chúa Bắc,
Vẫn chỉ loài phàm tục khao khát hoá chúa trời
Thường dân đứng là dấu chấm than
Cúi xuống thành dấu hỏi, chua xót phận người
Buông kiếp trôi theo dòng chảy binh đao, rì rầm tiếng máu.
Mặt trời bờ Bắc cháy lòng đốt những giọt thời gian
Soi dòng sông thấu màu xương trắng.
Những khoang đò mê bờ Nam, chất đằm lời ai vãn
Mấy trăm năm, dưới sao khuya, quanh quẩn tìm đường
Vẫn lạc cố hương!
Thương đất nước bao thời
Quằn quại xé mình ra, tự tách vía khỏi hồn
Trái tim đập vỡ đôi, biệt ly đầm nước mắt.
Hiểm ác bàn tay ai,
Dẫn nước cờ Việt hóa những xác chết da vàng
Dân cỏ ngây thơ mang ngực mình hứng đạn sang sông
Hoá thành quân tốt thí?
Tổ quốc, những buổi chiều vàng ủng mặt hôn quân
Sinh ra từ dị não u mê, từ cõi lòng hiểm trở
Cuồng điên tự nuốt thịt mình
Thắp ánh sáng thiên đường mù bằng máu đỏ.
Nước mắt mùa ngâu nhỏ dài bao thế kỷ
Đêm đất nước phập phồng tiếng nổ chiến tranh
Cùng một mái lá cũng chia lòng,
Lưỡi dao vô tri chém đôi bàn thờ tiên tổ.
Mặt đất nhung nhúc kẻ tự phong thần
Quyền lực tác oai đem trời xanh đánh tráo …
Thở dài từ non cao xuống tới hạ nguồn
Dòng sông đẫm nỗi niềm ngậm ngùi viễn cổ
Hồn ta dính đầy tên bắn về từ quá khứ
Sóng vẫn gầm gào
Dội buốt dải Sông Gianh!
Khúc buồn hội xuân
Rộn rã chiêng khua, cờ đỏ rừng hoa vàng núi
Vua giong trâu cày ruộng,
Tích cũ làm nghẹn lòng cả hội Tịch Điền
Loa dội tức ngực người, trổng rung như sấm dộ
Quan tuyên thệ, lời thề xưa động mặt biển xanh.
Che mắt thánh,
Mỗi năm một lần sắm vai đào kép bắt chước tiền nhân
Khai hội xong, vua hồi cung ngự ngai vàng trướng gấm
Các quan lên ngựa về dinh vui rượu nồng, tiệc yến
Trơ lại thần tiên vô hình và dân cỏ đầu đen.
Con cháu đời sau, tự phong thánh, hóa thần
Hô gió gọi mưa, cầm cương các tích trò lễ hội
Vương miện giấy chụp lên đầu người dân cày đóng thế
Kẻ thuyền chài khoác xông xênh áo mũ…thủ vai quan.
Trâu vua chạy như ngựa phi, đất mở xé đồng
Các quan tuyên thề hùng hồn hơn chém gió
Các tích trò đều trùm trong mặt nạ
Rồi hội tan trên cỏ nát nhàu.
Thường dân lại về với ruộng cạn đồng sâu\
Với lênh đênh kiếp vạn chài trên biển cả
Thần thánh về đâu từ ngàn xưa đến giờ chẳng ai biết cả
Trời im ỉm xanh, như vẫn thế ở trên đầu.