Chuyện ít biết về tác giả ‘Cửa mở’ gây chấn động một thời - Dương Kỳ Anh

Việt Phương, nhà thơ từng làm chấn động Phủ thủ tướng một thời khi ông cho tập “Cửa mở”. Đã có nhiều rất nhiều nghị bàn xung quanh “Cửa mở” cũng như thân thế, sự nghiệp của thi sỹ lão thành này. Chúng tôi xin đăng tải hai bài viết của PGS,TS Đức Vượng, Viện trưởng Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài, nhân lực, bài “"Cửa mở", một bộ óc mở, một trái tim mở, một tâm hồn mở” và Chuyện ít biết về tác giả ‘Cửa mở’ gây chấn động một thời của Nhà văn, nhà thơ Dương Kỳ Anh; hy vọng rằng qua những trang viết này ta không chỉ hình dung thêm về một thi sỹ mà còn thấy ở những dấu chân ông đi, để lại trên đất một con đường văn

Chuyện ít biết về tác giả ‘Cửa mở’ gây chấn động một thời -  Dương Kỳ Anh

Hôm kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam tại Cung Văn hóa Hữu Nghị, tan buổi, tôi đứng chờ xe taxi để về nhà thì gặp nhà thơ Việt Phương. Ông bảo: "Dương Kỳ Anh ơi, lên đây cùng về với mình". Buổi đầu, tôi cứ tưởng xe cơ quan đón ông, nhưng khi tôi lên xe ôtô mới biết đó là xe riêng của con trai ông. Thấy phong thái con trai ông lễ phép, thân tình và cởi mở, tự nhiên tôi muốn đến thăm gia đình ông, gia đình của một nhà thơ từng gây chấn động dư luận với tập thơ "Cửa mở".

Nhà thơ Việt Phương họ Trần, Trần Việt Phương, tên thực của ông là Trần Quang Huy. Năm ông 17 tuổi, tham gia hoạt động bí mật chống thực dân Pháp, bị bắt, bị giam với một người bạn tù cũng xấp xỉ tuổi ông. Hai người ở hai xà lim nhưng cũng thường trao đổi với nhau. Lúc đó ông có bí danh là Việt Phương và người bạn tù lại lấy tên ông là Trần Quang Huy làm bí danh. Sau này, người bạn tù đó trở thành Bộ trưởng Trần Quang Huy (tên thực là Vũ Đắc Huề).

Việt Phương có hai người con trai là Trần Trung Thực sinh năm 1956 và Trần Quang Huy sinh năm 1960. Là ông lấy tên khai sinh của mình đặt tên cho con. Ông kể rằng, trong hộ khẩu của ông có hai tên Trần Quang Huy nên dạo còn bao cấp, mỗi lần đi mua gạo mua dầu… người ta vặn hỏi ông, ông nói vui rằng nhà tôi có Trần Quang Huy 3 lít dầu và Trần Quang Huy 1/5 lít dầu (người lớn được mua 3 lít, trẻ con 1/5 lít).

Nhà thơ Việt Phương sinh năm 1928, đậu tú tài thời Pháp thuộc. Ông là trợ lý của Thủ tướng Phạm Văn Đồng mấy chục năm. Đã ở tuổi 87 mà trông ông như mới ngoài 70. Ông kể nhiều chuyện vui và hài hước. Những chuyện về văn chương, gia đình, những chuyện ít ai biết về số phận những tập thơ của ông.

Vợ ông, bà Trần Tú Lan năm nay 81 tuổi, từng là cô giáo với nhiều học trò nổi tiếng như Dương Trung Quốc, Chu Hảo… Bà kể chuyện con trai đầu của ông bà là Trần Trung Thực nhiều lần được ăn cơm cùng Bác Hồ: "Có lần, Bác gắp cho cháu Thực một miếng táo, nó cứ nhìn miếng táo để trong bát… Chắc thấy lạ vì Bác Hồ thường ăn táo sau khi đã hấp chín… Bác cũng hay cho cháu Thực sách để đọc. Một lần cháu Thực cầm cuốn sách lên thưa với Bác là cuốn này cháu đã đọc rồi ạ. Bác bảo: Cháu thật thà thế là tốt. Rồi Bác đi tìm cuốn sách khác đưa cho Thực...". Về sau Thực học chuyên toán, được giải nhì kỳ thi học sinh giỏi thành phố Hà Nội. Bây giờ Trần Trung Thực là Vụ trưởng, làm việc ở Bộ Công Thương sau nhiều năm làm tham tán công sứ ở cộng đồng châu Âu (tại Bỉ). Nhà thơ Việt Phương đã có ba cháu nội, cháu đích tôn của ông mang tên ông là Trần Việt Phương, năm nay 31 tuổi, tốt nghiệp thạc sỹ tại Anh quốc.

"Mở đài địch như mở toang cánh cửa", "Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ/ Hình như đấy là niềm tin, ý chí và tự hào/ Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ/ Sự ngây thơ đẹp tuyệt vời và ngờ nghệch làm sao", "Ta đã thấy những chỗ lõm lồi trên mặt trăng sao/ Những vệt bùn trên tận đỉnh chín tầng cao"… Những câu thơ từng gây chấn động dư luận một thời mà bây giờ tôi mới biết nó được trích từ bài thơ "Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi", một trong những bài trong tập thơ "Cửa mở" của nhà thơ Việt Phương do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1970. Vào những năm 70 mà viết những câu thơ như thế, tôi khâm phục ông vô cùng. Thời đó tôi còn là sinh viên khoa văn của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, chúng tôi chỉ đọc thầm cho nhau nghe, người này truyền qua người khác chứ thực tình tôi chưa nhìn thấy tập thơ "Cửa mở" bao giờ.

Tôi hỏi ông rằng, dạo đó người ta đồn thổi nhiều chuyện như ông bị cách chức, các con ông cũng bị "vạ lây"… có đúng không? Ông cười, lắc đầu "Không có chuyện đó đâu". Ông nói, tập "Cửa mở" năm đó in 5.200 bản, chỉ trong vài tuần là hết: "Anh Huy Cận bảo tôi chỉ còn vài chục cuốn người ta giữ lại thôi". Rất nhiều người khen, cũng nhiều người phê phán, có một nhà thơ là cán bộ cao cấp nói trong một cuộc họp: "Phủ Thủ tướng có một kẻ điên làm thơ". Vợ ông, bà Trần tú Lan khẳng định "Các con chúng tôi không làm sao cả". Rồi bà kể: "Tôi có đến gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Thủ tướng tưởng tôi đến có chuyện gì đó liên quan tới các con vì ông biết tôi rất chăm con. Tôi nói: Thưa chú, cháu đến vì tập thơ "Cửa mở". Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: "Phương có đem cho mình xem đâu". Tôi bảo: Tập thơ "Cửa mở" hay đấy chứ ạ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng bảo tôi: "Thơ Phương thì Tú Lan khen hay là phải rồi".

Nhà thơ Việt Phương đưa cho tôi bản thảo một bài thơ của ông, có chữ viết tay của nhà thơ Tố Hữu chữa hai câu thơ của ông: "Nhưng tôi không chịu" - Ông nói. Nhiều lần, ông đưa một số bài thơ mới làm cho các đồng chí Trường Chinh, Tố Hữu đọc. "Các anh ấy góp ý rất chân tình. Có lần Bác Hồ còn sửa thơ cho tôi" - Ông kể . Trong lúc vợ ông đang lục tìm những tấm ảnh của các con lúc còn bé, nhà thơ Việt Phương đến giá sách lấy 3 tập thơ tặng tôi, trong đó có tập "Cửa mở" cũng do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2009. Tập thơ "Cửa mở" tái bản y nguyên bản in đầu tiên, nhà thơ Việt Phương cho biết. Hai tập thơ còn lại đều là những bài thơ mà nhà thơ Việt Phương sáng tác trong nhiều năm gần đây. Tập thơ "Nắng" và tập "Lan" (Lấy tên vợ ông làm tên tập thơ) đều in năm 2013, một sức làm việc đáng kính nể.

"Đời đang đón đợi để đong đầy", tôi đang đọc câu thơ của ông in ngoài bìa tập thơ "Nắng" thì có tiếng chuông điện thoại. Cậu con trai thứ hai Trần Quang Huy hiện đang là Phó Tổng giám đốc Ngân hàng (MHB), người đã lái xe đón ông hôm tôi đi nhờ, gọi điện về nói sẽ đưa xe ôtô đến đón bố mẹ đi viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Phòng khách ở tầng một căn biệt thự bốn tầng trên đường Trần Quang Diệu bày nhiều thứ có vẻ như là đồ cổ mà theo nhà thơ Việt Phương là do cậu con trai thứ hai Trần Quang Huy mang về. Ông không dùng điện thoại di động, nên vừa tiếp khách, ông vừa xin lỗi để đi nghe điện thoại, chiếc điện thoại cố định đặt ở góc phòng.

Vợ ông, bà Trần Tú Lan kể rằng, chính bà đã bắt thăm và thật may mắn chọn được mảnh đất để xây nhà ở vị trí này, một vị trí có thể nói là đắc địa vì có hai mặt đường lớn: "Hôm ấy, cơ quan tổ chức bắt thăm, có mấy chục người, mấy chục mẩu giấy gấp làm tư, tôi nhìn thấy một mẩu giấy như đang vẫy vẫy tôi, có lẽ do luồng gió từ quạt trần làm mẩu giấy lất phất như vậy. Tôi thấy lạ và hay hay nên nhặt lên, ai ngờ lại chọn được vị trí đẹp nhất". Nhà thơ Việt Phương gật đầu xác nhận: "Đúng thế đấy… xây ngôi nhà này do một tay nhà tôi lo liệu".

Ông cầm một tệp đĩa nhạc đưa cho tôi và nói: Lúc cháu Thực chưa đầy năm, ông thường để cháu nằm trên giường, bên cạnh là chiếc máy hát (máy quay đĩa) do Thủ tướng Phạm Văn Đồng tặng. Ông bật máy quay, cho con nằm nghe nhạc. Những bản nhạc du dương, êm dịu của Beethoven. Ông nói, ông rất thích nhạc sĩ thiên tài này. "Mỗi lần tôi bật máy nghe nhạc là cháu Thực và sau này là cháu Huy nằm yên trên giường nghe rất chăm chú. Có lẽ vì thế mà sau này, khi các con tôi trưởng thành, chúng cũng yêu thích âm nhạc như tôi. Tôi nghĩ, nghệ thuật giúp cho con người sống nhân văn hơn" - Ông bảo vậy.

Trò chuyện với ông, tôi không những biết nhiều cái lạ trong thơ mà còn thấy ông có nhiều cái lạ trong cuộc sống hằng ngày. Ông kể, lúc con ông bắt đầu tập nói, những buổi chiều tối, ông để con ngồi trên chiếc ghế mây buộc sau xe, lọc cọc đạp xe lên bờ đê sông Hồng. Để xe xuống vệ cỏ bờ đê, ông bế con trên tay nhìn Sông Hồng cuộn chảy rồi bắt đầu dậy con tập nói. Ông chỉ đám mây bay là là trên mặt sông và nói "mây", con ông cũng bập bẹ "mây". Ông chỉ tay xuống mặt nước Sông Hồng nói "nước", thằng bé cũng bập bẹ "nước". Cứ như vậy, ông chỉ lên bầu trời, chỉ dãy núi phía xa xa, chỉ đàn chim đang bay, chỉ con sóng đang lượn, bông hoa đang nở, cây lúa đang ngậm đòng… "Vợ chồng tôi muốn các con sau này lớn lên hiểu được mọi thứ trên đời cụ thể nhất, chân thật nhất" - Ông nói.

Làm trợ lý cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng mấy chục năm, nhà thơ Việt Phương đã đi nhiều nơi trên thế giới. Ấy vậy mà vợ ông bà Trần Tú Lan lại chưa bao giờ đi nước ngoài. Tôi ngạc nhiên thực sự, mới hỏi bà vì sao? Có phải vì bà sợ đi máy bay? Hay có lý do nào khác? Bà nói đã từng được cử đi học ở Nga, bà cũng rất thích đi nhưng lúc đó các con bà còn nhỏ, nên bà đã nhường suất đi học nước ngoài cho người khác. Ở đời, được cái này phải biết hy sinh cái khác… Ngay cả sau này, khi cháu Thực làm tham tán công sứ ở nhiều nước châu Âu, cháu cũng rất muốn mẹ đi một vài chuyến du lịch nước ngoài… Mình nuôi con, rồi nuôi cháu, phải hiểu được quy luật bù trừ. Nếu mình cái gì cũng được hưởng thì sau này phần đâu cho con cháu?! Bây giờ, các con tôi, rồi các cháu được đi học nước ngoài, công tác ở nhiều nước, được đi đây đi đó là tôi mãn nguyện, là như tôi đã được đi nước ngoài rồi". Tôi thấy bà rất vui khi nói điều này. Tôi bỗng nhớ hai câu thơ của nhà thơ Việt Phương mà tôi vừa đọc trong tập "Lan": "Một thời cửa mở cho tất cả; Từ trong đại họa hóa bình yên". Thế đấy!


"Cửa mở", một bộ óc mở, một trái tim mở, một tâm hồn mở

Năm 1970, Nhà Xuất bản Văn học xuất bản tập thơ “Cửa mở” của nhà nghiên cứu, nhà thơ Việt Phương (tên khai sinh là Trần Quang Huy). Tập thơ đã gây tiếng vang lớn trên văn đàn Việt Nam và trong đông đảo bạn đọc yêu thơ. Có những bài thơ trong tập "Cử mở" đã được chép tay, trân trọng cất giữ trong ba lô của nhiều chiến sĩ đi dọc Trường Sơn từ Bắc vào Nam chống Mỹ và truyền tay nhau đọc giữa hai trận đánh. Tuy nhiên, lúc ấy, nảy sinh những ý kiến khác nhau xoay quanh việc đánh giá về tập thơ này. Chúng tôi nghĩ rằng, nhận thức là một quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực ở trong tư duy của con người,  hợp với những quy luật phát triển xã hội và gắn liền với thực tiễn đời sống. Dần dần, người ta nhận ra rằng, "Cửa mở" là một tập thơ đổi mới về tư duy thời cuộc, phù hợp với tình hình đất nước Việt Nam của chúng ta và thế giới đang có những biến đổi hằng giờ, hằng ngày. Qua thơ, anh Việt Phương đã góp phần nâng cao nhận thức một cách đúng đắn, xác thực hơn. V.I.Lênin viết: Nhận thức phản ánh đúng cuộc sống là nhận thức đúng đắn. “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”(1). Mọi lý luận về nhận thức đều nhất thiết phải xuất phát từ đời sống xã hội. Giá trị của “Cửa mở” ở chỗ đã phản ánh đúng đắn nhận thức thực tiễn của đời sống xã hội và của thế giới thời ấy. Vì vậy, theo đề nghị của nhiều bạn đọc, năm 1989, tập thơ được Nhà Xuất bản Văn học tái bản lần thứ nhất. 

Chúng ta biết rằng, những năm 60 của thế kỷ XX, nhiều người còn nhận thức theo nếp cũ:

“Ta cứ nghĩ đồng chí rồi thì không ai xấu nữa
Trong hàng ngũ ta chỉ có chỗ của yêu thương
Đã chọn đường đi chẳng ai dừng ở giữa
Mạc Tư Khoa còn hơn cả thiên đường.
Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sĩ
Hình như đấy là niềm tin, ý chí và tự hào
Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ
Sự ngây thơ đẹp tuyệt vời và ngờ nghệch làm sao” 

(Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi) 

Việt Phương trăn trở trước những nhận thức một chiều này. 

“Cửa Mở” là tập thơ lý trí và tình cảm. Lý trí thể hiện ở sự phản ánh đúng nhận thức hiện thực, ở lẽ phải của tình cảm. Tình cảm thể hiện ở tình thương yêu của một con người với nhiều con người; ở trách nhiệm của một công dân đối với xã hội, đất nước, con người, trước hết là những con người lao động, lam lũ, vất vả, “chạy ăn từng bữa toát mồ hôi” Có lần, anh Việt Phương tâm sự là Anh rất thích câu thơ của đại văn hào Trung Quốc, Lỗ Tấn:

“Trợn mắt xem khinh nghìn tráng sĩ
Cúi đầu làm ngựa các nhi đồng”. 

Tình cảm là hiện tượng tâm lý, xúc động, yêu ghét, cảm phục, vui buồn. Cũng có lúc, Việt Phương thấy lý trí và tình cảm đan xen nhau, rất khó phân định ranh giới trên thơ ca. Dù sao, tình yêu quê hương được thể hiện lấp lánh trong thơ Việt Phương: 

“ Quê ta dòng sông trôi bình thản
Khoan thai trong bảng lảng hoàng hôn
Đàn trâu đẫm mình đen loang loáng
Chiều rõ tình quê xuống tâm hồn”

(Năm xưa buổi lên đường) 

Tình yêu quê hương, đất nước thể trong tình yêu đất nước Việt Nam đã sinh ra Anh:

“Đời đẹp quá. Sáng hôm nay chủ nhật
Cây đầu hè quen đến mất màu xanh
Bỗng bừng nở chùm hoa tươi mát nhất
Hay niềm vui đất nước tặng cho mình?”

(Đêm trắng)

“Ta đi giữa đời ta – Hà Nội
Đất quê hương vững chãi vô cùng
Một ánh sao chiều mát rượi
Chân trời bỗng rộng mênh mông”.

(Ta đánh Mỹ vậy thì ta tồn tại) 

Yêu quê hương, đất nước là bảo vệ quê hương, đất nước, anh Việt Phương đã cùng cả dân tộc vào trận để chống quân xâm lược Pháp và Mỹ. Đây cũng là lúc anh Việt Phương cho ra đời những bài thơ viết hay về cuộc kháng chiến anh hùng của nhân dân Việt Nam chống Pháp và chống Mỹ xâm lược:

“Ta đánh Mỹ bằng bốn nghìn năm lịch sử
Ba mươi triệu vì sao rực rỡ đất này
Năm lục địa bao la mà ta tiếp lửa
Ba nghìn triệu người tay nắm chặt tay”

(Ta đánh Mỹ vậy thì ta tồn tại) 

Giữa đêm 19-11-1967, Hà Nội bắn rơi 12 máy bay Mỹ đến bắn phá Thủ đô, cả đêm ấy, Việt Phương thức trắng để làm bài thơ: “Nơi tự do độc lập sáng như gương”. Trong bài thơ này, Anh chú thích: “Một số người bạn ở phương Tây, tốt với chúng ta, nhưng ở xa, đã viết: “Địa ngục Hà Nội dưới bom Mỹ”. Các bạn ấy, người nào có dịp sang tận nơi, thì sau một thời gian không lâu, đã thấy rằng, không thể nghĩ Hà Nội là địa ngục, và Hà Nội không hề dưới bom Mỹ”. 

Đến nay, thời gian đã qua đi được gần 35 năm, nhưng những hình ảnh về cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm lừng lẫy nhất trong lịch sử dân tộc vẫn in đậm trong trái tim của dân tộc Việt Nam và trong trái tim của nhân dân thế giới.

Phải nói rằng, những bài thơ về cuộc kháng chiến của dân tộc chống ngoại xâm, in trong tập thơ “Cửa mở” là những bài thơ anh Việt Phương viết rất đạt, gợi nhiều cảm xúc thiêng liêng của dân tộc đứng trước nạn giặc ngoại xâm. 

Trong “Cửa mở” có những bài thơ viết về Bác Hồ và về Đảng với những tình cảm trân trọng và nội dung sâu sắc. Tháng 9-1969, Bác Hồ ra đi và yên nghỉ trong giấc nghìn thu. Dân tộc ta, nhân dân ta vô cùng thương tiếc sự ra đi của vị anh hùng giải phóng dân tộc kiệt xuất, nhà văn hoá lớn. Việt Phương đi viếng Bác với vẻ mặt trầm tư. Suốt từ ngày 4 đến ngày 10-9-1969, Anh ngồi nhà lặng im suy nghĩ về Bác và viết bài thơ “Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương”. Bài thơ này dài 104 câu. Chất thơ, hồn thơ, tứ thơ quyện vào nhau một cách nhuần nhuyễn để nói về một con người đã đi vào lịch sử dân tộc, lịch sử thế giới: Bác Hồ Chí Minh.

“Đêm nay nghìn vạn chúng con xếp thành hàng đi viếng Bác
Ôi làm sao nguôi được nhớ thương này
Chúng con đi cho cả người vắng mặt
Người chưa sinh người đã khuất cũng về đây
Việt Nam đau cả lòng người dạ đất
Sao mùa thu như nước mắt trời mây
Chúng con đi theo tiếng Người phía trước
Đường Hùng Vương dân tộc đi từ dựng nước đến ngày nay” 

(Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương)

“Sao bao năm đồng chí với Người, con gọi Người:
Đồng chí
Là khi con vĩnh biệt Người, Đồng chí, Bác Hồ ơi
Con nguyện làm một mảnh của Người, đến trọn đời tận tụy
Hồ Chí Minh, người cộng sản rất mực Việt Nam
và vô cùng chung thuỷ con người”

(Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương) 

Khi Bác Hồ mất được trăm ngày, Việt Phương viết bài thơ “Người như sự sống mãi sinh sôi”. Bài thơ này toát lên một ý là trái tim của một con người và trái tim của nhiều người đang đập ngày đêm cả trong hiện thực cuộc sống và trong những giấc mơ trong trẻo của một con người và của những con người theo những tư tưởng của Bác:

“Tim vẫn đập cả khi ta quên mất
Buổi ta làm và trong giấc ta mơ
Trái tim ấy ta đúc bằng chân thật
Lắng tai nghe. Tim luôn đập: Bác Hồ”

(Người như sự sống mãi sinh sôi)

“Tim vẫn đập. Ta nghe rồi tiếng Bác
Tiếng lương tâm ta khao khát yêu người
Dạ hương thầm theo suốt thời đánh giặc
Bác vào ta thành tiếng hát ngày mai”

(Người như sự sống mãi sinh sôi) 



Những ngày nhớ Bác, Việt Phương lặng lẽ đi trong mùa thu Hà Nội. Hồ Gươm trong xanh. Liễu rủ tơ mành. Tiếng gió rì rào thổi từ phía sông Hồng rượt tới. Làn mây bay êm đềm. Đàn chim chao lượn trên bầu trời trong xanh của một Thủ đô đang chiến đấu bắn máy bay Mỹ. Đây là nét độc đáo của một thời Hà Nội. Tất cả toát lên vẻ lạc quan của người Việt Nam trong chiến trận. Quang cảnh này làm Việt Phương càng nghĩ nhiều về Bác, kiến trúc sư của cách mạng Việt Nam, một người đã giải quyết thành công vấn đề dân tộc và dân chủ ở Việt Nam:

“Bác chiếu soi từ mỗi dòng nắng bạc
Bác nhìn ta từ tia mắt mỗi người
Ta sống đây, ta làm sao quên được
Bác của con. Con gọi: Bác Hồ ơi”

(Người như sự sống mãi sinh sôi) 

Việt Phương khâm phục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh là xuất phát tự đáy lòng và từ trái tim của một người đã từng Nam tiến, một thời xông pha nơi trận mạc, một người suốt đời gắn bó với dân tộc mình, nhân dân mình, quê hương, đất nước mình, và đặc biệt, với Bác Hồ kính yêu:

“Ta sẽ nói một lời tha thiết nhất
Lời còn ghi khi tất cả quên rồi
Lời sâu kín từ bao đời ấp ủ
Về Người như sự sống mãi sinh sôi”

(Người như sự sống mãi sinh sôi) 

Trong “Cửa mở”, Việt Phương có bài “Đảng”. Bài này, Anh triết lý sâu sắc, rất đúng và cảm động về Đảng:

“Đảng là sức đau tận cùng nỗi đau người nghèo khổ
Sức dâng của nước và sức bừng của lửa
Đảng là chuỗi hy sinh nhận tự buổi đầu
Không hỏi bao giờ giới hạn ở đâu
Đảng là khi trên nền nhà cuối cùng sau trận càn còn cháy dở
Sức mạnh và niềm tin dấy lên từ ba người họp lại thành chi bộ
Đảng là một sáng mùa thu chói loá Ba Đình
Bốn nghìn năm trẻ lại phút hồi sinh”

(Đảng) 

Với đặc thù Việt Nam, truyền thống Việt Nam, Việt Phương viết:

“Đảng là Hùng Vương, Nguyễn Trãi,

Quang Trung gặp Mác – Lênin
Nở ra thành Bác Hồ Chí Minh”

(Đảng) 

Câu thơ này mang dáng dấp một câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Đảng ta là con nòi, xuất thân từ giai cấp lao động”(2). 

Với Việt Phương, “Đảng là máu, nước mắt, mồ hôi dân nghèo mình tụ lại”. “Đảng là lời giục giã giội từ tim”. “Đảng là những mối lo thường trực. Lương tâm của lương tâm đêm ngày thao thức”  

(Đảng) 

Khi Việt Phương viết “Cửa mở”, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống Mỹ, cứu nước đang diễn ra hết sức ác liệt, cho nên bài thơ “Đảng” của Anh có những câu gắn bó với đồng bào, đồng chí đang chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ ở miền Nam Việt Nam:

“Đảng là miền Nam đặt giữa tình thương nhớ”

(Đảng) 

Có người nói rằng, trong “Cửa mở”, câu thơ “Đảng của ta lịm đi không sống nữa, Sẽ để lại cuộc đời chỉ còn rực rỡ có Tình yêu” là “có vấn đề”. Thực ra, Việt Phương viết câu này là ý muốn nói đến một nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, rằng, đến một lúc nào đó, “khi chế độ tự quản xã hội cộng sản chủ nghĩa thay thế nhà nước và xác lập được sự đồng nhất về xã hội, thì cơ sở để các đảng chính trị tồn tại sẽ mất đi. Người ta có thể được tập hợp lại thành các liên minh tuỳ theo sở thích của mình, nhưng các liên minh này sẽ không còn mang tính chất chính trị nữa và sẽ không phải là các đảng theo nghĩa hiện tại của từ này”(3). Việt Phương nghĩ “quá xa”, cho nên Anh đã phải “luỵ gần”. 

Trong 30 bài thơ của tập "Cửa mở" có 5 bài thơ tình và nhiều câu thơ, khổ thơ tình yêu ở hàng chục bài thơ khác. Thơ tình là một đóng góp của Việt Phương được nhiều thế hệ trẻ và nhiều bạn đọc mọi lứa tuổi yêu thích vì sự say đắm trong tình yêu, vừa rất đời, vừa rất mộng, trữ tình dào dạt, chất hoà đồng vị tha thắm đượm. 

Nội dung của “Cửa mở” là lành mạnh, nghệ thuật của “Cửa mở” là gấm vóc, triết lý của “Cửa mở” là sâu sắc, tính nhân văn của “Cửa mở” là cao cả. “Cửa mở” thể hiện một bộ óc mở, một trái tim mở, một tâm hồn mở. Tuy nhiên, trong “Cửa mở”, bên cạnh những “hạt cát vàng” cũng chen lẫn một số &l