Thuyết “Xã hội bằng cấp” của Randall Collins soi chiếu với thực tiễn ở Việt Nam
Tiến sĩ Randall Collins, (sinh 1941) là Giáo sư Xã hội học tại Đại học Pennsylvania và là thành viên của Hội đồng Biên tập tư vấn của tạp chí Lịch sử sự tiến hóa xã hội. Ông được coi là một trong những nhà lý thuyết Mác-xít ôn hòa hàng đầu tại Hoa Kỳ. Thuyết “xã hội bằng cấp”, hay vấn đề mặt trái của giáo dục của ông đã phản ánh hiện thực nguy hiểm của một xã hội vị bằng cấp và gợi nhiều suy ngẫm về vấn đề này tại Việt Nam hiện nay.
Thuyết “xã hội bằng cấp” nhấn mạnh mặt trái của xã hội học tập.
Thuyết xã hội bằng cấp (Degree of Social Theory) là tập hợp các vấn đề mặt trái của giáo dục mà các nhà khoa học giáo dục Mỹ nêu lên từ những năm 1980-1990 của thế kỷ XX; Đại diện tiêu biểu nhất là Randall Collins. Ông đưa ra khái niêm “Xã hội bằng cấp” để chỉ ra một xã hội trong đó mọi người quá coi trọng bằng cấp giáo dục và dựa chủ yếu vào bằng cấp để tuyển dụng lao động mà coi nhẹ năng lực thực sự của cá nhân. Collins cho rằng các văn bằng chứng chỉ như bằng Cử nhân, bằng Thạc sĩ, bằng Tiến sĩ là những biểu tượng vị thế, giống như nhãn hiệu hàng hoá, chứ không phải là những chỉ báo tri thức và năng lực nghề nghiệp của một con người.
Trong xã hội bằng cấp, xuất hiện xu hướng đến trường chỉ đề giành lấy một tấm bằng nhất định nào đó chứ không phải để phát triển năng lực, bởi một lẽ rất đơn giản phải có bằng mới đáp ứng được nhu cầu của người tuyển dụng, mới có công việc để sinh tồn. Đây là nguyên nhân quan trọng đầu tiên tạo ra “chủ nghĩa bằng cấp”. Thực chất khái niệm “chủ nghĩa bằng cấp” nói tới cơ chế, cách thức mà những nhóm vị thế lợi dụng các văn bằng chứng chỉ để bảo vệ cho các vị trí nghề nghiệp và vị thế xã hội cùng với các lợi ích kèm theo của họ. Chính bằng cấp sinh ra từ giáo dục đã tự tạo lên
Sự cạnh tranh của các nhóm vị thế về tài sản, quyền lực... Thực chất giáo dục góp phần củng cố sự phân tầng xã hội. Nhờ có bằng cấp mà các nhóm vị thế tìm mọi cách để bảo vệ vị trí của họ bằng cách phân biệt người “đúng nghề” và người “ngoài nghề”. Bởi vậy những kỳ thi để lấy bằng cấp, giấy phép hành nghề... là những biện pháp để bảo vệ vị trí xã hội của từng nhóm vị thế trong xã hội.
Chủ nghĩa bằng cấp là biểu hiện của sự sùng bái bằng cấp giáo dục; ở đó con người được đánh giá giá trị bản thân, giá trị của sức lao động phụ thuộc vào bằng cấp mà họ đạt được cao hay thấp, nhiều hay ít và đánh giá xếp loại văn bằng khá giỏi , trung bình... Một biểu hiện khác của chủ nghĩa bằng cấp là không ít người sau khi đã giành được vị thế xã hội rồi mới bắt đầu đi học lấy bằng cấp. Việc này, rõ ràng là không làm tăng trình độ chuyên môn của con người ấy mà chỉ là công cụ phương tiện để hợp lý hoá và hợp thức hoá những vị thế xã hội.
Thực tế này làm sai lệch ý nghĩa tốt đẹp và giá trị đích thực của giáo dục đối với xã hội và tạo ra xã hội bằng cấp. Nhà trường mang vai trò sản xuất ra các loại bằng cấp cho người học, là cỗ máy sản xuất các bằng cấp cho xã hội, nhưng lại không thực sự đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lực, kỹ năng cho lực lượng lao động.
Tệ sùng bái bằng cấp tạo ra tâm lý học vì kiếm tiền, vì lợi nhuận kinh tế là trên hết. Kết quả nghiên cứu xã hội học về mối quan hệ giữa giáo dục và thu nhập đã phát hiện ra quy luật về sự phụ thuộc của thu nhập vào học vấn: Trình độ học vấn càng cao thì thu nhập càng lớn.. Theo điều tra của tác giả tại Hoa Kỳ vào 10 năm trước đây, mức thu nhập bình quân của nhóm người tốt nghiệp lớp 12 là 10000 - đến 12500 USD/năm. Thu nhập của số người học đại học hệ 4 năm là 50000-75000 USD/năm.
Tuy giáo dục không trực tiếp làm tăng năng suất lao động, những người lao động có giáo dục và có trình độ học vấn cao là người có khả năng tạo ra năng suất lao động cao và do vậy được trả công cao. Điều này giải thích tại sao các gia đình và các cá nhân sẵn sàng đầu tư vào giáo dục và học lên cao tới bậc đại học: Muốn có một việc làm ổn định với tiền công cao thì cần phải có bằng đại học và trên đại học.
Trên cơ sở của mối tương quan tỉ lệ thuận giữa học vấn và thu nhập đã nảy sinh vấn đề sùng bái bằng cấp khi quy đổi bằng cấp là trình độ học vấn, là trình độ năng lực của cá nhân, theo kiểu hình thức là cứ có bằng cấp là có trình độ chuyên môn tương ứng. Nhưng trên thực tế mối quan hệ giữa bằng cấp và năng lực nghề nghiệp không phải với bất kỳ đối tượng nào cũng có tỷ lệ thuận.
Randall Collins với thuyết “Xã hội bằng cấp” đã nêu lên quan niệm giải thích tại sao trong xã hội mọi người quá đề cao bằng cấp giáo dục và cảnh báo nguy cơ sùng bái hình thức của bằng cấp giáo dục mà coi nhẹ nội dung, chất lượng giáo dục. Với nghĩa như vậy xã hội bằng cấp là một mặt trái của xã hội học tập.
Ý nghĩa thực tiễn của thuyết soi chiếu tại Việt Nam
Randall Collins viết thuyết này vào những năm 90 của thế kỷ XX, nhưng hiện thực của nó lại hiện hình rất rõ tại Việt Nam hiện nay. Quá nhiều loại hình bằng cấp, chứng chỉ, bậc học đào tạo, trên 500 trường cao đẳng đại học ( chưa tính hệ trung cấp các trung tâm nghề và các loại hình không chính quy khác đến tận 659 đơn vị hành chính cấp huyện ) đã trở thành bộ máy sản xuất bằng cấp khổng lồ một thứ “dịch vụ” đáp ứng nhu cầu của xã hội đang trong thời kỳ mở cửa. Sự hình thành tự nhiên theo quy luật cung cầu này bắt nguồn từ hai nguyên nhân cơ bản.
Thứ nhất là tâm lý người Việt chuộng văn bằng, hiện tại nhà nhà , người người đều mong mỏi bản thân và người thân có mảnh bằng đại học trong tay, thậm chí nó còn được cụ thể hóa trong chỉ tiêu của các cơ quan quản lý nhà nước cấp quận huyện và các ngành giáo dục cấp tỉnh. Thực chất là một kiểu bệnh thành tích dẫn đến hậu họa thừa thày thiếu thợ, đến thất nghiệp và nguy hiểm hơn là căn bệnh “bằng thật, người giả” tạo ra một lực lượng lao động mà năng lực nghề nghiệp không phản ánh đúng yêu cầu nội hàm của tấm văn bằng phải có.
Thứ 2 là cơ chế tuyển dụng, đề bạt chức vụ nhân lực, được xác lập dựa quá nhiều vào văn bằng mà bỏ qua quy trình tuyển dụng khoa học với 7 bước: Tuyển mộ - tuyển lựa – tuyển chọn – thử việc – bồi dưỡng – đề bạt – sa thải. Chính vì vậy nhiều tỉnh thành lên tiếng “nói không với bằng tại chức” vẫn chưa phải là đáp số đúng của việc tuyển nhân lực. Một tấm bằng chính quy chưa nói lên tất cả phẩm chất năng lực đích thực của người tuyển dụng. Quá trình bổ nhiệm đề bạt các chức vụ chủ chốt lại chưa căn cứ vào bằng cấp và năng lực thực sự, hầu như các cương vị chủ chốt vào giai đoạn từ 2005 trở về trước đều được đề bạt xong mới đi học để hợp thức. Rõ ràng trong giai đoạn đi học thì người lãnh đạo giảm chất lượng công tác và giảm luôn cả chất lượng học tập và cuối cùng cho ra những sản phẩm kém chất lượng không chỉ trong giai đoạn này mà còn kéo dài vào thì tương lai.
Bài học của chúng ta trước hết phải là trang bị con mắt xã hội, sao cho mọi người nhận thức rõ mặt trái của xã hội bằng cấp, và giáo dục trước hết phải là cơ quan đầu tiên chịu trách nhiệm “sản xuất” đúng quy trình khoa học và chịu trách nhiệm về sản phẩm bằng cấp của mình đáp ứng nhu cầu đích thực của xã hội.
Quy luật về tác động tỷ lệ thuận của trình độ học vấn đối với thu nhập sẽ bị triệt tiêu nếu xã hội có cách thức tổ chức quá trình lao động. Nếu cách quản lý lao động dựa vào trình độ chuyên môn, năng lực thực sự để tuyển dụng; cách bố trí việc làm nhăm thực hiện mục tiêu thực tế và cách phân phối, trả công lao động dựa vào năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động thì rõ ràng là vấn đề vị bằng cấp khó có thể phát huy tác dụng. Bởi con người không dại gì đầu tư vào bằng cấp để khi không làm được việc sẽ bị thải loại.
Tất nhiên vấn đề đánh giá giá trị sản phẩm của một số ngành nghề đòi hỏi các nhà quản lý, các nhà khoa học phải nghiên cứu và đưa ra được những xác định cụ thể trên cơ sở xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng cống hiến tương thích với lợi ích nói chung và lợi ích kinh tế nói riêng mà người lao động được thụ hưởng. Đặc biệt là các ngành nghề không sản xuất ra những sản phẩm đo đếm được: nhà khoa học, nhà giáo, các tác giả văn học, nghệ sỹ...hiện tại vẫn chưa có thang thước chuẩn mực nào để đánh giá sản phẩm của họ để quy đổi ra giá trị kinh tế.
..........................................
Tư liệu tham khảo